I. CÔNG NGHIỆP HOÁ THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá
a) Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa
- Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá:
xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản,
lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
- Phương hướng của công nghiệp hoá:
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
+ Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông
nghiệp.
+ Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng.
+ Ra sức phát
triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa
phương
b) Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới
- Công nghiệp
hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển
công nghiệp nặng, gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao
cấp.
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài
nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa...
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí,
ham làm nhanh, làm lớn không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa
Kết quả:
So với năm
1955, số xí nghiệp tăng 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, có
nhiều cơ sở đầu tiên của công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí,
luyện kim, hóa chất được xây dựng.
Có hàng chục trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ
thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960 là thời điểm bắt đầu
công nghiệp hóa.
Ý nghĩa:
Trong điều kiện đi lên từ xuất phát thấp,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề thì những kết quả đạt được trên đây có ý
nghĩa hết sức quan trọng – tạo cơ sơ ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn
trong các giai đoạn tiếp theo.
b) Hạn chế và nguyên
nhân:
Hạn chế:
-
Cơ sở vật chất – kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những
ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ
sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
-
Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu
phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho
xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, rơi
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Nguyên nhân:
Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo
nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không
thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
Về chủ quan, chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục
tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu
tư, v.v… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức và
chủ trương công nghiệp hóa.
II. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá
a) Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức
và chủ trương công nghiệp hoá thời kỳ 1960-1986:
- Chúng ta đã
phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v…
- Trong việc
bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất
phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp
với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý.
- Không thực
hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V.
b) Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá từ Đại hội
VI đến Đại hội X:
- Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (1/1994)
có bước đột phá mới trong nhận thức về công nghiệp hóa.
- Đại hội VIII của Đảng (6/1996) nhìn nhận
lại đất nước sau 10 năm đổi mới. Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và định hướng những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90.
- Đến Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X
(4/2006), Đảng tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số quan điểm mới về công
nghiệp hóa.
2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
a) Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Đại hội X đề ra mục tiêu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức:
- Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển
-Tạo nền tảng
để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại
b) Quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
-
Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá; công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức
- Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
- Lấy
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững
- Coi phát triển
khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
- Phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học
3. Nội dung và định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát
triển kinh tế tri thức
a) Nội dung
- Phát triển các ngành và sản phẩm kinh tế
có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng
trưởng...
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp
lý
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng
suất lao động...
b) Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn
- Phát triển
nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
- Phát triển kinh tế vùng
- Phát triển kinh tế biển
- Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công
nghệ
- Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc
gia, cải thiện môi trường tự nhiên
4. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa:
Một là, cơ
sở vật chất – kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập
tự chủ của nền kinh tế được nâng cao.
Hai là, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được những
kết quả quan trọng
Ba là, những
thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng đưa nền kinh
tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.
Ý nghĩa: Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở phấn đấu để
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
b) Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế:
+ Tốc độ tăng
trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực
thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu
người thấp.
+ Nguồn lực
của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao; tài nguyên, đất đai và các
nguồn vốn của nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát
huy.
+ Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các ngành sản phẩm có
hàm lượng tri thức cao còn ít.
+ Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ
cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp
và chưa được quan tâm đúng mức.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo
được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của
các thành phần kinh tế.
+ Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém,
chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
+ Nhìn chung, mặc dù đã cố gắng dầu tư nhưng kế cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội.
Nguyên nhân:
-
Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất
các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội.
- Cải cách hành
chính còn chậm và kém hiệu quả. Công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp
ứng yêu cầu.
0 comments:
Post a Comment